Phương án ứng phó thiên tai trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
Tỉnh Đắk Lắk có diện tích tự nhiên là 18.096,4 km2 trên cơ sở hợp nhất từ tỉnh Đắk Lắk cũ và tỉnh Phú Yên, nằm ở vị trí chiến lược, là cầu nối giữa vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Phía Bắc giáp tỉnh Gia Lai, phía Nam giáp tỉnh Khánh Hòa và tỉnh Lâm Đồng, phía Tây giáp tỉnh Lâm Đồng và Campuchia, phía Đông giáp biển Đông.
Hệ thống sông suối khá dày đặc và phân bố đều. Các sông chính bao gồm sông Ba, sông Bàn Thạch, sông Kỳ Lộ, sông Cầu và hệ thống sông Sêrêpôk. Do đặc điểm địa hình, các sông thường ngắn, dốc, có dòng chảy lớn vào mùa mưa và cạn kiệt vào mùa khô. Địa hình của tỉnh rất đa dạng và phức tạp, gồm các dải núi cao, cao nguyên (phía Tây), vùng đồi núi thấp chuyển tiếp và đồng bằng ven biển (phía Đông); có bờ biển dài 189km, có nhiều đầm, vịnh (Cù Mông, Xuân Đài, Vũng Rô), vũng và đào tạo tiềm năng phát triển kinh tế biển. Khí hậu thuộc vùng nhiệt đới gió mùa, có hai mùa rõ rệt: Phía Đông Đắk Lắk mùa khô (tháng 1 - tháng 8) và mùa mưa (tháng 9 - tháng 12); phía Tây Đắk Lắk mùa khô (tháng 11 năm trước đến tháng 4 năm sau) và mùa mưa (tháng 5 - tháng 10).
Khí hậu có sự phân hóa giữa vùng núi cao, cao nguyên (mát mẻ, lượng mưa lớn hơn, không chịu gió Tây khô nóng) và vùng đồng bằng ven biển (nóng hơn, lượng mưa thấp hơn, chịu ảnh hưởng của gió Tây khô nóng). Tỉnh thường xuyên chịu ảnh hưởng của bão, áp thấp nhiệt đới, lũ lụt, sạt lở đất vào mùa mưa và hạn hán, cháy rừng vào mùa khô. Ngoài ra, trong thời kỳ chuyển mùa thường xảy ra một số loại hình thiên tai khác, như: Dông, sét, lốc tố. Trong những năm gần đây diện tích rừng cũng như chất lượng rừng tự nhiên suy giảm đã làm gia tăng tình trạng thiên tai trên địa bàn.
Đặc điểm thiên tai trên địa bàn tỉnh
Với đặc thù về vị trí địa lý, địa hình tự nhiên của tỉnh, các loại hình thiên tai chủ yếu thường xảy ra hàng năm, gồm:
- Bão và áp thấp nhiệt đới: Mùa bão từ tháng 9 đến tháng 12 hàng năm, số lượng bão tập trung nhiều nhất vào tháng 9 và 11. Khi bão hoặc ATNĐ đổ bộ thường gây ra mưa to đến rất to, gây lũ lớn, lũ tập trung nhanh, sạt lở đất mang theo bùn cát, sức tàn phá lớn đối với miền núi cũng như đồng bằng
- Lũ, lũ quét:
+ Do đặc thù khí hậu 2 mùa, lượng mưa trong năm tập trung chủ yếu trong mùa mưa chiếm khoảng 80 - 90% tổng lượng mưa cả năm. Vì vậy trong thời kỳ mùa mưa thường xảy ra các đợt lũ, lũ quét, phổ biến tập trung trong khoảng thời gian từ tháng 8 đến tháng 11 hằng năm. Tuy nhiên, những năm gần đây do ảnh hưởng biến đổi khí hậu, nhiều đợt mưa lũ lớn xảy ra sớm (tháng 6, 7) hoặc muộn (tháng 12), hoặc mưa lũ trái mùa (tháng 1) gây ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp. Lũ, lũ quét thường xảy ra chủ yếu ở các xã: Đắk Liêng, Nam Ka, Đắk Phơi, Krông Nô, Pơng Drang, Krông Búk, Ea Khăl, Ea Drăng, Ea Wy, Ea H’leo, Ea Hiao, Dliê Ya, Tam Giang, Phú Xuân, Ea Ô, Cư Yang, Ea Păl, Ea Riêng, Cư M’ta, Krông Á, Cư Prao, Ea Trang, Dang Kang, Yang Mao, Cư Pui, Suối Trai, Sơn Hòa, Phú Mỡ, Đồng Xuân, Xuân Phước, Hòa Mỹ, Hòa Thịnh,…
+ Lũ, lũ quét là loại hình thiên tai nguy hiểm, thường gây thiệt hại về người, gây hư hỏng nhiều công trình cơ sở hạ tầng, thiệt hại về sản xuất, ảnh hưởng đến tốc độ phát triển kinh tế của địa phương. Đặc biệt, đối với các vùng sâu, vùng xa tình trạng dễ bị tổn thương cao do một số nguyên nhân chủ yếu, như: Hệ thống công trình cơ sở hạ tầng chưa được đầu tư kiên cố; giao thông qua các ngầm tràn khi có mưa, lũ chưa được kiểm soát; tập quán sống dài ngày trong nhà chòi tạm trên nương rẫy; khả năng tiếp nhận thông tin dự báo, cảnh bảo thiên tai hạn chế, năng lực ứng phó thiên tai tại cộng đồng chưa cao.
- Mưa lớn: Thường xảy ra khi có sự kết hợp của một số hình thái thời tiết gây mưa, như: Gió mùa Tây nam hoạt động mạnh, dải hội tụ kết hợp gió mùa Tây Nam hoạt động trung bình; ảnh hưởng của hoàn lưu bão kết hợp gió mùa Tây Nam,… Mưa lớn là một trong những nguyên nhân gây lũ, lũ quét. - Ngập lụt: Chủ yếu xảy ra ở các vùng trũng, thấp, vùng ven sông khi có đợt mưa lớn kéo dài. Những vùng thường xảy ra ngập lụt, như các xã, phường: Ea Súp, Ea Rốk, Ea Bung, Ia Rvê, Ia Lốp, Dray Bhăng, Ea Ktur, Krông Ana, Dur Kmăl, Ea Na, Liên Sơn Lắk, Đắk Liêng, Nam Ka, Đắk Phơi, Krông Nô, Hòa Sơn, Dang Kang, Krông Bông, Yang Mao, Cư Pui, Tân Tiến, Ea Phê , Ea Kly, Vụ Bổn, Ea Ô, Cư Yang, Ea Păl, Phú Yên, Hòa Thịnh, Hòa Mỹ, Phú Mỡ, Đồng Xuân, Sơn Hòa,… Ngập lụt thường gây thiệt hại lớn về sản xuất nông nghiệp và đời sống hằng ngày của người dân.
- Sạt lở đất: Phổ biến xảy ra khi có mưa lũ ở những khu vực sườn dốc, bờ sông, bờ suối đoạn có chế độ dòng chảy phức tạp, cấu tạo địa chất bờ yếu. Sạt lở đất gây hư hỏng công trình cơ sở hạ tầng (đặc biệt là nhà ở), mất đất sản xuất,…
- Lốc, sét, mưa đá: Thường xảy ra trong thời kỳ cuối mùa khô đến giữa mùa mưa. Lốc, sét là loại hình thiên tai xảy ra trên diện hẹp nhưng nguy hiểm đến tính mạng con người và khó dự báo sớm. Một số khu vực có nguy cơ cao xảy ra lốc, sét, mưa đá như các phường/xã: Ea Wer, Ea Nuôl, Buôn Đôn, Đắk Liêng, Nam Ka, Đắk Phơi, Krông Nô, Ea Súp, Ea Rốk, Ea Bung, Ia Rvê, Ia Lốp, Ea Kiết, Ea M’Droh, Quảng Phú, Cuôr Đăng, Cư M’gar, Ea Tul, Ea Ô, Ea Knốp, Cư Yang, Ea Păl, Buôn Ma Thuột, Tuy An Đông, Tuy An Nam, Sông Cầu, Phú Mỡ, Tây Sơn, Đồng Xuân, Sơn Hòa, Suối Trai, Ea Ly, Sông Hinh, Đức Bình, Đông Hòa, Hòa Xuân, Hòa Hiệp, Tuy Hòa, Phú Yên, Ô Loan,…
- Nắng nóng, hạn hán: Thường xảy ra trên diện rộng và kéo dài trong thời kỳ mùa khô đặc biệt là cuối mùa khô mức độ nắng nóng và hạn hán gia tăng. Do đặc thù canh tác với diện tích cây lâu năm chiếm tỷ lệ lớn nên công tác phòng chống hạn gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, những năm gần đây hạn hán đã xảy ra cả trong thời kỳ mùa mưa ảnh hưởng chủ yếu đối với cây ngắn ngày. Thiệt hại do hạn hán gây ra hàng năm là rất lớn về kinh tế cũng như ảnh hưởng môi trường tự nhiên.
- Cháy rừng do tự nhiên: Toàn tỉnh Đắk Lắk có 747.687,2 ha rừng, gồm: rừng tự nhiên 537.319,9 ha, rừng trồng 210.367,3 ha. Cháy rừng thường xảy ra vào cuối mùa khô khi mức độ nắng nóng và khô hạn, có nguy cơ cảnh báo cháy rừng ở Cấp IV, Cấp V (Cấp nguy hiểm và Cực kỳ nguy hiểm), tập trung phần lớn diện tích rừng trên địa bàn thuộc các huyện Buôn Đôn, Ea Súp, Ea H’leo, M’Drắk, Tuy Hòa, Đông Hòa, Sông Cầu, Đồng Xuân, Phú Hòa, Sơn Hòa, Sông Hinh… trước đây. Tình trạng cháy rừng xảy ra trên địa bàn tỉnh trong những năm gần đây: năm 2019 là 1.268,76 ha; năm 2020 là 46,2 ha; năm 2021 là 101,25 ha; năm 2023 là 115,89 ha; năm 2024 là 29,81 ha.
- Ngoài ra, còn một số loại thiên tai khác. Trong bối cảnh ảnh hưởng biến đổi khí hậu, tình hình thiên tai trên địa bàn tỉnh có xu hướng gia tăng về các loại hình, tần suất xảy ra và diễn biến phức tạp.
Dự báo tình hình thời tiết trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới (theo bản tin dự báo của Trung tâm Khí tượng thủy văn Quốc gia)
- Từ nay đến đầu năm 2026, hiện tượng ENSO duy trì trạng thái trung tính, khả năng xuất hiện El Nino/La Nina rất thấp.
- Từ nay đến tháng 10/2025 có khoảng 6 - 7 cơn bão/ATNĐ trên Biển Đông, 2 - 3 cơn có khả năng ảnh hưởng đất liền; từ tháng 11, 12/2026, khả năng xuất hiện bão/ATNĐ ở mức xấp xỉ trung bình, cần đề phòng ảnh hưởng vùng ven biển. Mưa lớn khả năng xảy ra vào các tháng cuối năm (11, 12/2025) với tổng lượng mưa cao hơn TBNN từ 10 - 25%, các tháng còn lại xấp xỉ TBNN. Ngoài ra, khả năng xảy ra 01 đến 02 đợt nắng nóng kéo dài và các hiện tượng thời tiết nguy hiểm như: Dông, lốc, sét, mưa đá, gió giật mạnh, tập trung nhiều vào các tháng 8, 9, 11 và 12/2025.
Để chủ động phòng, tránh, ứng phó kịp thời với các tình huống thiên tai có thể xảy ra trong năm 2025, UBND tỉnh ban hành Phương án ứng phó thiên tai trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk với mục đích: Bảo đảm an toàn tuyệt đối cho người, tài sản của Nhà nước và Nhân dân, hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại do thiên tai gây ra. Kịp thời di dời, sơ tán dân ở khu vực xung yếu, có nguy cơ cao ảnh hưởng của thiên tai đến nơi tạm cư an toàn, nhất là đối với các đối tượng dễ bị tổn thương. Bảo vệ an toàn tuyệt đối cho các công trình phòng, chống thiên tai trên địa bàn tỉnh. Bảo vệ sản xuất và môi trường sinh thái; Chủ động thực hiện công tác phòng cháy, chữa cháy rừng để hạn chế thấp nhất các vụ cháy rừng, huy động lực lượng đủ mạnh nhằm chữa cháy kịp thời, không để cháy lớn, kéo dài gây thiệt hại đến tài nguyên rừng.